Mô tả Kaga (tàu sân bay Nhật)

Thiết kế và chế tạo

Kaga được đặt lườn như một trong số hai thiết giáp hạm nhanh thuộc lớp Tosa, và được hạ thủy vào ngày 17 tháng 11 năm 1921 tại xưởng đóng tàu của hãng Kawasaki Heavy IndustriesKobe. Đến ngày 5 tháng 2 năm 1922, trong khi chờ đợi hoàn thiện, cả hai chiếc thiết giáp hạm lớp Tosa bị hủy bỏ và được chỉ định cho tháo dỡ theo những điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington.[3][4]

Tuy nhiên, Hiệp ước cho phép cải biến lườn của hai thiết giáp hạm hay tàu chiến-tuần dương với trọng lượng choán nước tiêu chuẩn cho đến 33.000 tấn Anh (34.000 t) trở thành tàu sân bay. Ban đầu, hai chiếc AmagiAkagi chưa hoàn tất thuộc lớp tàu chiến-tuần dương Amagi được chọn để hoán cải, nhưng trận động đất lớn Kantō (Quan Đông đại chấn tai) ngày 1 tháng 9 năm 1923 đã phá hủy sườn chiếc Amagi đến mức không thể sửa chữa một cách kinh tế, vì vậy Kaga được chọn để thay thế. Quyết định chính thức cải biến Kaga thành tàu sân bay được công bố vào ngày 13 tháng 12 năm 1923, nhưng công việc đã không tiến hành cho đến năm 1925, sau khi bản vẽ mới được thảo ra cũng như những hư hại của Xưởng hải quân Yokosuka do động đất được sửa chữa. Nó được chính thức đưa ra hoạt động vào ngày 31 tháng 3 năm 1928, nhưng chỉ có ý nghĩa bắt đầu công việc chạy thử máy. Nó gia nhập Hạm đội Liên hợp (Rengo kantai) vào ngày 30 tháng 11 năm 1929 như là chiếc tàu sân bay thứ ba của Hải quân Nhật, sau các chiếc Hōshō (1922) và Akagi (1927).[5]

Kaga được hoàn tất với chiều dài chung 238,5 mét (782 ft 6 in). Nó có mạn thuyền rộng 31,67 mét (103 ft 11 in) và độ sâu mớn nước 7,92 mét (26 ft 0 in) khi đầy tải. Con tàu có trọng lượng choán nước 26.900 tấn Anh (27.300 t) ở tải trọng tiêu chuẩn và 33.693 tấn Anh (34.234 t) khi đầy tải, nhẹ hơn gần 6.000 tấn Anh (6.100 t) so với trọng lượng thiết kế như một thiết giáp hạm.[6] Thủy thủ đoàn đầy đủ của nó gồm 1.340 thành viên.[7]

Sự bố trí sàn cất-hạ cánh

Kaga khi hoàn tất, cho thấy rõ cả ba sàn cất-hạ cánh

Giống như Akagi, Kaga được hoàn tất với ba sàn cất-hạ cánh xếp thượng tầng, là những tàu sân bay duy nhất trên thế giới được thiết kế như vậy. Các tàu sân bay Anh Quốc Glorious, CourageousFurious, nguyên được cải biến từ những "tàu tuần dương nhẹ lớn", mỗi chiếc có hai sàn cất-hạ cánh, nhưng không có chứng cứ gì là người Nhật đã sao chép kiểu mẫu của người Anh. Rất có thể đây là sự cải tiến mang tính hội tụ những biện pháp nhằm phóng lên càng nhiều máy bay càng tốt. Sàn đáp chính của Kaga dài 171,2 mét (561 ft 8 in); sàn giữa chỉ dài 15 mét (49 ft 3 in) và bắt đầu ngay phía trước cầu tàu; và sàn dưới dài khoảng 55 mét (180 ft 5 in). Nghi vấn đặt ra về sự tiện dụng của sàn giữa bởi vì nó quá ngắn và chỉ cho phép một số máy bay tải trọng nhẹ mới có thể sử dụng được, ngay cả vào thời đại mà máy bay nhỏ và nhẹ hơn nhiều so với thời Thế Chiến II.[8] Ở bất kỳ tốc độ nào, sự tiến triển về tính năng, kích cỡ và trọng lượng máy bay trong những năm 1930 khiến cho ngay cả sàn cất cánh dưới cũng không đảm đương chiều dài lăn bánh cất cánh cần cho thế hệ máy bay mới được đưa vào sử dụng; vì thế hai sàn cất cánh bên dưới được tháo bỏ và bít kín khi nó được hiện đại hóa giữa những năm 1930.[9] Khác biệt so với Akagi, sàn đáp phía trên của Kaga hoàn toàn phẳng cho đến khi nó được bổ sung một tháp chỉ huy vào giai đoạn được hiện đại hóa.[10]

Khi hoàn tất, con tàu có hai hầm chứa máy bay (hangar) chính và một hầm phụ thứ ba, có thể chứa tổng cộng 60 máy bay. Hai hầm chính mở ra vào sàn cất cánh giữa và sàn cất cánh dưới, cho phép máy bay cất cánh trực tiếp từ hầm chứa, trong khi hoạt động hạ cánh diễn ra ở sàn trên. Máy phóng không được trang bị.[11] Thang nâng máy bay phía trước được đặt lệnh sang mạn phải và có kích thước 10,67 nhân 15,85 mét (35 ft 0 in × 52 ft 0 in)[Chuyển đổi: Số không hợp lệ]; thang nâng phía sau đặt trên trục giữa và có kích thước 12,8 nhân 9,15 mét (42 ft 0 in × 30 ft 0 in)[Chuyển đổi: Số không hợp lệ]. Hệ thống dây hãm của nó là kiểu dọc do người Pháp phát triển để sử dụng trên tàu sân bay Béarn của họ; được người Nhật đặt tên là Kiểu Fju (Fju shiki) trong kỹ thuật.[12]

Khi hoàn tất, Kaga mang theo một phi đoàn bao gồm 28 máy bay ném bom-ngư lôi Mitsubishi B1M3, 16 máy bay tiêm kích Nakajima A1N và 16 máy bay tuần tiễu Mitsubishi 2MR.[6][Note 1]

Vũ khí và vỏ giáp

Kaga đang được trang bị hoàn tất, năm 1928. Góc nhìn từ phía sau cho thấy ống khói dài mở rộng về phía sau bên dưới sàn đáp và ba khẩu pháo 8 inch (200 mm) trên các tháp pháo ụ.

Kaga được trang bị mười khẩu pháo 20 cm (7,9 in)/50 caliber, gồm hai tháp pháo nòng đôi kiểu B đặt hai bên sàn cất cánh giữa và số còn lại gồm sáu khẩu trong các tháp pháo ụ phía sau. Chúng bắn ra đạn pháo nặng 110 kilôgam (240 lb) với tốc độ 3 đến 6 phát mỗi phút, với lưu tốc đầu đạn 870 m/s (2.900 ft/s); ở góc nâng 25°, chúng cho phép đạt tầm xa tối đa 22.600–24.000 mét (24.700–26.200 yd). Các tháp pháo kiểu B này trên danh nghĩa có thể nâng cho đến góc 70° để cung cấp hỏa lực phòng không bổ sung, nhưng trong thực tế góc nâng tối đa chỉ đạt được 55°. Tốc độ bắn chậm và góc nạp đạn cố định ở 5° làm triệt tiêu mọi khả năng phòng không.[14][15] Dàn hỏa lực hạng nặng này được bố trí trong trường hợp nó bị tấn công bất ngờ bởi tàu tuần dương đối phương và bị buộc phải tham chiến; nhưng sàn cất-hạ cánh lớn và mong manh, hầm chứa máy bay và cấu trúc thượng tầng làm cho nó trở thành một mục tiêu nổi bật hơn mọi tàu chiến trong các cuộc đụng độ mặt biển. Học thuyết về tàu sân bay vẫn còn đang được phát triển vào lúc đó, và người ta chưa nhận thức được sự phi thực tế của việc đấu pháo tay đôi của tàu sân bay.[16][Note 2]

Con tàu cũng trang bị vũ khí dành riêng phòng không gồm sáu khẩu 12 cm (4,7 in)/45 caliber nòng đôi, bố trí mỗi bên mạn ba khẩu đội trên những bệ nhô bên dưới mức các ống khói, nơi chúng không thể bắn chéo qua mạn của sàn đáp.[18] Các khẩu pháo này bắn ra đạn pháo nặng 20,3 kilôgam (45 lb) với lưu tốc đầu đạn 825–830 m/s (2.710–2.720 ft/s); ở góc nâng 45° chúng cho phép đạt tầm xa tối đa 16.000 mét (17.000 yd), và có được trần bắn tối đa 10.000 mét (11.000 yd) ở góc nâng 75°. Tốc độ bắn hiệu quả của kiểu vũ khí này là từ 6 đến 8 phát mỗi phút.[19][20] Nó còn có hai bộ kiểm soát hỏa lực Kiểu 89 để điều khiển các khẩu pháo 20 cm (7,9 in) và hai bộ kiểm soát hỏa lực Kiểu 91 (Kōshaki) vận hành bằng tay dành cho các khẩu pháo phòng không 12 cm (4,7 in).[21]

Khi được tái cấu trúc, độ dày đai giáp của Kaga được giảm từ 280 mm (11 in) xuống còn 152 mm (6 in), và phần trên của bầu chống ngư lôi có lớp giáp dày 127 mm (5 in). Độ dày vỏ giáp sàn tàu cũng được giảm từ 102 mm (4,0 in) xuống còn 38 mm (1,5 in).[12]

Động lực

Khi Kaga được thiết kế, vấn đề xử lý ảnh hưởng khí nóng thoát ra đối với hoạt động không lực của tàu sân bay vẫn chưa được giải quyết. Các ống khói xoay tròn trên chiếc Hōshō đã không thành công, và những thử nghiệm trong hầm gió không đề xuất được giải pháp nào. Vì vậy Kaga và Akagi được cung cấp những giải pháp khác nhau để đánh giá trong điều kiện hoạt động thực tế. Khí thải của Kaga được góp vào một cặp ống dẫn dài đặt ngang để thải ra phía sau hai bên sàn đáp, cho dù đã có sự dự đoán của các nhà thiết kế hải quân tiếng tăm rằng chúng không thể đẩy hơi nóng ra cách xa sàn đáp. Sự dự báo này đã tỏ ra chính xác, không chỉ vì Kaga chậm hơn Akagi khiến hơi nóng bốc lên cao và ảnh hưởng đến hoạt động hoạt cánh. Một khuyết điểm khác là sức nóng của khí thải khiến cho chỗ nghỉ của thủy thủ đoàn hai bên lườn tàu cạnh ống khói hầu như không thể ở được.[12]

Kaga được hoàn tất với bốn bộ turbine hơi nước Kawasaki Brown-Curtis, mỗi bộ dẫn động một trục chân vịt, tạo ra tổng công suất 91.000 shp (68 MW). Khi được thiết kế như một thiết giáp hạm, nó được hy vọng sẽ đạt tốc độ tối đa 26,5 hải lý một giờ (49,1 km/h; 30,5 mph), nhưng việc giảm trọng lượng choán nước từ 39.900 tấn Anh (40.500 t) xuống còn 33.693 tấn Anh (34.234 t) đã giúp gia tăng tốc độ tối đa lên 27,5 hải lý một giờ (50,9 km/h; 31,6 mph), vốn đã đạt được khi chạy thử máy vào ngày 15 tháng 9 năm 1928. Nó có 12 nồi hơi Kampon Kiểu B (Ro) với áp suất hoạt động 20 kg/cm2 (1.961 kPa; 284 psi), trong đó chỉ có 8 nồi hơi được đốt dầu, và 4 chiếc còn lại đốt hỗn hợp dầuthan. Trữ lượng nhiên liệu của nó bao gồm 8.000 tấn Anh (8.100 t) dầu và 1.700 tấn Anh (1.700 t) than, cho phép nó tầm hoạt động 8.000 hải lý (15.000 km; 9.200 mi) ở tốc độ đường trường 14 hải lý một giờ (26 km/h; 16 mph).[12]

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Kaga (tàu sân bay Nhật) http://www.awm.gov.au/histories/second_world_war/v... http://www.combinedfleet.com/kaga.htm http://www.nauticos.com/midway.htm http://www.nauticos.com/midway/IJNwreckanalysis-ka... http://www.nauticos.com/press/10-29-99.htm http://www.navweaps.com/Weapons/WNJAP_25mm-60_mg.h... http://www.navweaps.com/Weapons/WNJAP_47-45_10ns.h... http://www.navweaps.com/Weapons/WNJAP_5-40_t89.htm http://www.navweaps.com/Weapons/WNJAP_79-50_3ns.ht... http://ww2db.com/ship_spec.php?ship_id=9